Con voi là một loài động vật thông minh và giàu cảm xúc. Chúng có hành vi và khả năng biểu cảm gần giống con người nhất. Chúng có tập tính xã hội cao – gắn kết sâu sắc, thân tình với đồng loại.
Đặc điểm của con voi
Voi là một loài then chốt trong hệ sinh thái tự nhiên
Ví dụ, voi lùn Borneo, loài voi nhỏ nhất trong số các loài voi, đóng vai trò như một cứu cánh cho các hệ sinh thái rừng ở Borneo. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sức khỏe của hệ sinh thái bằng cách hoạt động như những người phân tán hạt giống trên phạm vi hoạt động của chúng. Đồng thời chúng cũng giúp củng cố lớp phủ xanh cần thiết cho mọi dạng sống.
Chúng tiêu thụ gần 1% khối lượng cơ thể mỗi ngày
Những loài động vật tuyệt đẹp này hấp thụ lượng thức ăn bằng khoảng 1% trọng lượng cơ thể của chúng mỗi ngày. Vì nếu một con voi có cơ thể nặng tới sáu tấn, lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày của nó sẽ lên đến 60 kg thức ăn khô mà không cần thêm hàm lượng nước.
Voi không ngủ nhiều. Chúng di chuyển hàng chục km mỗi ngày để tìm kiếm một lượng lớn thức ăn cần thiết để duy trì sự sống cho cơ thể to lớn của chúng. Vòi của chúng không chỉ dùng để cầm nắm thức ăn mà còn dùng để sờ, ngửi, thở và tạo ra âm thanh.
Vòi của chúng được cấu tạo từ hơn 40.000 cơ và gân, chính điều này đã khiến cho các thao tác bằng vòi của chúng có độ chính xác rất cao – đây là lý do tại sao voi có thể nhặt những thứ nhỏ như một đồng xu từ mặt đất.
Voi là những vận động viên bơi lội bẩm sinh
Trong khi voi không thể nhảy hay bật cao vì cơ thể quá to lớn, thì chúng lại sở hữu một khả năng bơi lội tuyệt vời. Chúng có thể thở bằng vòi của mình trong khi cơ thể hoàn toàn chìm dưới nước. Sinh vật to lớn này là những tay bơi cừ khôi và có thể bơi liên tục trong phạm vi 51km.
Cơ thể của chúng tuy to lớn nhưng lại có thể dễ dàng nổi lên trong nước bằng cách thả lỏng cơ thể.
Loài voi sở hữu một sức mạnh trí nhớ đặc biệt
Các nhà khoa học thường tin rằng trí nhớ đặc biệt của loài voi là một trong những cách tuyệt vời để ngăn chặn kẻ thù làm tổn thương chúng. Loài voi sống theo chế độ mẫu hệ và có xu hướng nhớ rất rõ và lâu về bạn bè cũng như kẻ thù của chúng. Đồng thời chúng cũng có thể nhớ nơi chúng tìm thấy thức ăn và nước uống trước đây.
Trên thực tế, người ta đã từng ghi nhận hai con voi từng biểu diễn cùng nhau vài tháng tại rạp xiếc vẫn có thể nhận ra nhau khi chúng đoàn tụ vào 23 năm sau.
Voi thực hành ngôn ngữ ký hiệu
Nếu bạn nhìn thấy một con voi đang nâng cái vòi của mình lên theo hình chữ “S”, nó có thể đang phát hiện ra mùi của bạn. Ngoài ra, hành động này cũng chỉ ra rằng con voi đang chờ đợi thông tin mới, giống như trong các tình huống mà nó nhận thấy nguy hiểm hoặc gặp người lạ.
Khi một con voi cảm thấy bất an hoặc bối rối không biết phải làm gì, chúng có thể sẽ dùng vòi chạm vào mặt, tai, miệng hoặc ngà voi như một hành động trấn an và xoa dịu bản thân.
Voi rất giỏi đồng cảm và cũng biết bày tỏ lòng kính trọng, thương tiếc đối với những thành viên đã chết trong gia tộc của chúng.
Voi có thể nâng cao kỹ năng học tập
Bộ não của voi là bộ não lớn nhất trong số tất cả các loài động vật có vú trên cạn. So với con người, não của chúng cũng có một số lượng cực kỳ lớn các tế bào thần kinh. Bộ não của một con voi Châu Phi chứa khoảng 257 tỷ tế bào thần kinh, gấp ba lần số lượng tế bào thần kinh mà não người có.
Tuy nhiên, số lượng tế bào thần kinh lớn nhất hiện diện trong tiểu não giúp tăng cường các chức năng cảm giác. Vì vậy, voi có xu hướng nắm bắt rất nhiều thông tin từ môi trường xung quanh chúng và bằng cách đó, chúng có những kỹ năng học hỏi tuyệt vời.
Điều này đã được chứng minh trong một số trường hợp. Ví dụ, một con voi đã từng học từ đồng loại của nó về một khu bảo tồn, và khi bị thương bởi những kẻ săn trộm, nó đã sử dụng kiến thức cũ này để tìm kiếm sự giúp đỡ từ con người trong khu bảo tồn đó.
Cơ thể của chúng chứa một gen “zombie” có khả năng bảo vệ khỏi bệnh ung thư
Các nghiên cứu đã tiết lộ rằng voi có thêm bản sao của hai gen chống lại ung thư – P53. Những gen này săn tìm các tế bào chứa DNA bị lỗi và loại bỏ bất kỳ tế bào nào như vậy trước khi chúng có thể hình thành khối u. Những gen này khiến cho nguyên nhân gây ra tỷ lệ tử vong do ung thư ở voi cực kỳ thấp (5%) so với tỷ lệ tử vong ở người là 25%.
Chúng biết tưởng nhớ và thương tiếc những cái chết
Cũng giống như con người, voi có thể cảm nhận được cảm xúc. Trên thực tế, một số nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng phản ứng của chúng trước cái chết là một trong những điều kỳ lạ nhất về loài voi. Những con voi hầu như luôn thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến những người bạn đã chết của chúng, ngay cả khi đã chết vài năm.
Ngoài con người, voi là sinh vật duy nhất có sự đa dạng của các tế bào thần kinh trong não, và điều này chịu trách nhiệm cho các khả năng của chúng như đồng cảm, tự nhận thức và giao tiếp xã hội.
Voi ma mút
Đặc điểm của voi ma mút
Voi ma mút có bộ lông dài gần 50cm, rậm rạp hơn loài voi bây giờ, có ngà dài và cong, răng voi ma mút rất dài, cong quặp vào trong, dài nhất lên đến 5cm, răng lớn, sắc cạnh, thích hợp cho nghiền nát cỏ.
Ma mút có chân sau ngắn nên trọng tâm toàn thân nghiêng về phía sau, vai nhô cao, chân chỉ có 4 ngón (kém 1 ngón so với voi hiện nay). Vòi của voi ma mút có hai chỗ lồi giống như ngón tay, một ở phía trước và một ở phía sau, giúp chúng dễ dàng túm lấy cỏ. Da màu đen, nâu và nâu đỏ, lông vàng, cao từ 3 đến 3,3 m.
Thời gian tồn tại voi ma mút
Theo các nhà khoa học, voi ma mút tồn tại ở thế Pliocen (thế Thượng Tân), khoảng 4,8 triệu năm đến 4.500 năm trước. Trước khi bị tuyệt chủng, loài voi này sống trải đều trên Trái Đất trong giai đoạn cuối kỷ Băng Hà.
Theo nhà cổ sinh vật học người Đức, giáo sư Ralf-Dietrich Kahlke, duy nhất loài bò rừng (Bison priscus) có phạm vi phân bố rộng như loài voi ma mút trong thời kỳ cuối của kỷ Băng Hà.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng voi ma mút to nhất có thể là loài voi ma mút lông đen tại Siberia. Loài ma mút này không phải là của những con voi bản địa, mà là những con vật khổng lồ có nguồn gốc châu Mỹ.
Voi ma mút lông đen từng ngự trị Trái Đất trong hơn nửa triệu năm, khắp từ châu Âu, châu Á đến Bắc Mỹ. Loài vật khổng lồ thuộc Kỷ Băng Hà này biến mất khỏi Siberia 9.000 năm trước, mặc dù voi ma mút sống sót trên hòn đảo Wrangel thuộc Bắc Băng Dương cho đến khoảng 3.700 năm trước. Voi ma mút có thể nặng đến hàng chục tấn.
Vì sao voi ma mút chúng tuyệt chủng?
Cho đến gần đây, người ta cho rằng con voi ma mút cuối cùng biến mất ở châu Âu và nam Xibia vào khoảng 12.000 năm trước đây, tuy nhiên có những khám phá dẫn đến kết luận là chúng còn sống ở đó khoảng 10.000 năm trước đây.
Không lâu sau đó voi ma mút cũng biến mất khỏi Xibia. Một nhóm nhỏ còn sống ở đảo Paul cho đến 3750 TCN và những con ma mút nhỏ của vùng đảo Wrangel sống đến 1650 TCN. Những nghiên cứu mới đây về trầm tích tại Alaska cho thấy voi ma mút còn sống ở lục địa châu Mỹ cho đến 10.000 năm trước đây.
Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Quaternary Science Reviews, những con voi ma mút sống trên Đảo Wrangel không chết vì những nguyên nhân tương tự với các con voi ma mút khác. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu cho rằng, những con voi ma mút này bị cô lập và dẫn đến tình trạng cận huyết, từ đó làm suy yếu sự đa dạng di truyền của chúng.
Điều này dẫn đến việc giảm khả năng thích nghi của voi ma mút với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và gây ra cái chết. Hai hòn đảo nhỏ, biệt lập nép mình giữa Nga và Alaska. Các hòn đảo này đã bị tách khỏi đất liền khi nước biển dâng cao và những thay đổi địa chất. Các nhà nghiên cứu cho rằng nơi trú ẩn của những con voi ma mút cuối cùng là Đảo Wrangel.
Hòn đảo xa xôi tại Bắc Băng Dương ở phía Đông Bắc Siberia được xác định là nơi yên nghỉ của những cá thể voi ma mút cuối cùng trên thế giới. Nghiên cứu mới này cho thấy những con voi ma mút ở đây sống lâu hơn những cá thể cùng loài ở Bắc Mỹ và Châu Âu khoảng 7.000 năm trước khi bị tuyệt chủng.
Cho tới nay người ta vẫn chưa thể giải thích dứt khoát tại sao voi ma mút bị tuyệt chủng nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có thể do thời tiết nóng lên khoảng 12.000 năm trước đây, rồi sau đó các tảng băng tan ra và thụt ra biển khiến cho mặt biển dâng lên, có thể đây là một yếu tố. Rừng rú bị thay thế bởi đồng cỏ trong lục địa.
Môi trường sinh sống của voi ma mút cũng do dó mà bị thu hẹp lại. Tuy nhiên, đấy chỉ là phỏng đoán bởi trong nhiều giai đoạn ấm đã xảy ra trong kỷ băng hà trong nhiều triệu năm nhưng không gây ra tuyệt chủng cho loài sinh vật này, do đó chỉ khí hậu không đóng vai trò quyết định duy nhất cho sự tuyệt chủng của voi ma mút ở đây.
Sự xuất hiện của những thợ săn thiện nghệ ở lục địa Á Âu và Châu Mỹ vào khoảng thời gian sự tuyệt chủng xảy ra có thể đóng vai trò lớn lao khiến voi ma mút biến mất.
Voi ma mút tuyệt chủng do khí hậu thay đổi hay bị con người săn bắt quá độ vẫn còn là một vấn đề tranh cãi.
Con người đã từng bắt đầu tiêu thụ thịt voi ma mút khoảng 1,8 triệu năm trước đây. Có dấu hiệu ở Ucraina cho thấy người con người xây nhà dùng xương voi ma mút. Theo Viện Khoa học Sinh học tại Mỹ khám phá ra rằng xương voi ma mút chết nằm lại trên mặt đất và sau đó bị các con voi ma mút khác giẫm lên cũng mang những dấu vết tương tự như là bị người ta làm thịt.
Bài hát chú voi con
Chú voi con ở Bản Đôn
Chưa có ngà nên còn trẻ con
Từ rừng già chú đến với người
Vẫn ham ăn với lại ham chơi
Voi con ơi, voi con ơi
Mau lớn nhanh có đôi ngà to
Có sức đi khắp miền rừng xa
Kéo gỗ cho buôn làng của ta
Chú voi con thật là khôn
Quen thiếu nhi khắp vùng Bản Đôn
Đầu gật gù lúc lắc cái vòi
Khéo đung đưa theo nhịp chiêng vui
Voi con ơi, voi con ơi
Mau lớn nhanh có thân mình to
Khắp chốn Tây Nguyên cần nhiều voi
Góp sức xây buôn làng đẹp tươi